~~~~~~~~~~~~~~~~~~~~~~~~~~~~~~~~~~~~~~~~~~~

ベトナムの俳句  Thơ Haiku của các bạn Việt Nam

~~~~~~~~~~~~~~~~~~~~~~~~~~~~~~~~~~~~~~~~~~~ 

 

俳句を作る授業の中で、大学生Trần Thị Thanh Hàさんが見事な発明をしてくれました。俳句は5/7/5の形式があります。一方、ベトナム語は単音節です。さんは音節を5/7/5のリズムに乗せてくれましたから、ベトナム語と日本の俳句が統合されました。日本語以外の言葉による俳句の素晴らしい可能性を示しています。ベトナム語が原作で、日本語はT先生の翻訳です。

Trong giờ học sáng tác thơ Haiku, sinh viên Trần Thị Thanh Hà đã có một phát minh tuyệt vời. Haiku là thể thơ 5/7/5. Trong khi tiếng Việt thuộc loại đơn âm. Hà đã dùng các âm tiết theo nhịp 5/7/5 và kết hợp giữa tiếng Việt và thơ Haiku của Nhật Bản. Nó thể hiện khả năng tuyệt vời của thể thơ Haiku khi được viết bằng những ngôn ngữ khác ngoài tiếng Nhật. Nguyên tác là tiếng Việt, thầy T dịch sang tiếng Nhật.

 

 

136

Gió thổi tóc em bay

Mùa hoa nở mình em đứng đó

Nở rộ tâm hồn tôi

   秋風に髪も心も花も揺れ

       あきかぜに/かみもこころも/はなもゆれ

              Trần Thị Thanh Hà

 

風が君の髪を流します。君は花畑に立っています。私の心はぱっと開きます。 

Gió luồn qua mái tóc em. Em đứng giữa cánh đồng hoa. Trái tim tôi bỗng rộng mở.

 

ベトナムの皆さんは花が大好きです。家の内外に花を欠かしません。二人はどこの花畑に行ったのでしょうか。さっと秋風が吹いて、君の豊かな髪が風の中で揺れている。花が揺れている。そして、僕の心にも大きな花がぱっと咲いた。

Người Việt Nam rất thích hoa. Hoa là thứ không thể thiếu trong và ngoài nhà. Hai người trong bài thơ đã đến cánh đồng hoa nào vậy? Cơn gió mùa thu thổi khẽ, mái tóc em khẽ rung. Hoa cũng lay động. Và rồi một đóa hoa lớn cũng nở rộ trong tâm hồn tôi.

 

 

137

Chú gấu bông phủ bụi

Lặng mơ về ngày xửa ngày xưa

Cũng lũ trẻ vui đùa

   ぬいぐるみ昔夢見る子どもらと

       ぬいぐるみ/むかしゆめみる/こどもらと

             Vũ Thị Thanh Trang

 

本棚の片隅にずっと置きっぱなし。そこにあることさえ忘れていたクマさんのぬいぐるみを子供が発見。「ねえ、お母さん、あれなあに?」すっかりほこりをかぶっていた。ああ、そうだ。私がちょうどこの子たちのころ、母に買ってもらったものだ。手に取ると、はるか遠くの幼い夢がそっとよみがえる。

Lũ trẻ phát hiện chú gấu bông bị quên lãng, bị bỏ mặc trong góc giá sách. "Mẹ ơi! Kia là cái gì?". Chú gấu phủ đầy bụi. A, phải rồi. Hồi mẹ còn nhỏ như con bây giờ, bà ngoại đã mua cho mẹ đấy. Cầm chú gấu trên tay, giấc mơ thời thơ ấu xa xưa khẽ ùa về.

 

ぬいぐるみを手にしながら子供たちと話しているやさしいお母さんが想像されます。「ねえ、だれに買ってもらったの?」「お母さんのお母さんだよ!」「誕生日のプレゼント?」「ううん、違う。幼稚園でねえ、お絵かき会があってねえ、お母さんの絵が一番になったんだ。その時、ごほうびに買ってもらったんだよ。」「へえ、ほんとう? じゃあ、その絵、見せて!」「う~ん、どこへしまったかなあ。」「ないの~? 見せて~!」「う~ん。どこにあるかなあ、分かんなくなっちゃったなあ。」「お母さん、一番てホント?」「ホントよ、うふふ。」楽しい話が続きます。 

Có thể tưởng tượng cảnh người mẹ cầm chú gấu bông trên tay đang dịu dàng nói chuyện với bọn trẻ. "Mẹ này, ai mua cho mẹ đấy?" "Mẹ của mẹ mua đấy!" "Quà sinh nhật ạ?" "Không phải đâu, hồi mẫu giáo có cuộc thi vẽ tranh, tranh mẹ vẽ đạt giải nhất. Khi đó mẹ được thưởng đấy." "Thế á? Thật không ạ? Thế mẹ cho con xem bức tranh ấy đi!" "Ừm... Không biết mẹ cất ở đâu nhỉ?" "Không thấy ạ? Cho con xem đi!" "Ừm... Ở đâu nhỉ? Mẹ không biết nữa..." "Mẹ, có thật mẹ đạt giải nhất không?" "Thật mà. Uhuhu..." Những câu chuyện vui vẻ cứ tiếp diễn.

 

 

138

Sân trường sau giờ học

Một bước tiến lại một bước lùi

Như những cánh chim bay

   授業後の行き交う人は鳥の群れ

      じゅぎょうごの/いきかうひとは/とりのむれ

             Đỗ Thị Thu Thủy

 

授業後の校庭は大勢の学生たちが行き交います。右から左から、前から後ろから。次の教室に、図書館に、食堂にあっちこっちに移動します。鳥の群れが集まったり散ったりしているようです。 

Sinh viên đi qua đi lại đầy sân trường sau giờ học. Từ bên phải rồi bên trái, cả từ phía trước lẫn phía sau. Họ di chuyển khắp mọi nơi, đến phòng học tiếp theo, sang thư viện, vào nhà ăn... Cứ tụ lại rồi lại tản ra như một bầy chim vậy. 

 

校舎の高い階から校庭を見下ろすと、見えるのは動いている人だけではありません。ベンチで本を読む人、お弁当を広げている人、携帯電話を耳にあてている人。その人たちは枝にとまっている小鳥たちでしょうか。

Nếu nhìn xuống sân trường từ tầng cao của giảng đường thì cái ta nhìn thấy không chỉ là những người đang di chuyển mà còn có sinh viên đang đọc sách trên ghế đá, người đang giở cơm hộp ra ăn, người đang áp tai vào điện thoại... Những người ấy chẳng phải giống như những chú chim nhỏ đang đậu trên cành cây hay sao?

 

 

139

Tiếng còi xe tíu tít

Những đoàn xe nối tiếp đuôi nhau

Đường về còn xa lắm

   バタバタベーベーバイクさえ帰りの道を遠くする

      ばたばたべーべー/ばいくさえ/かえりのみちを/       とおくする

            Nguyễn Thị Mai Hương

 

アルバイトの帰り道。夜の大通りをとぼとぼと寮に向かって歩いている。私の横を次から次へとバイクがすり抜けていく。あ~あ疲れた。まだか。遠いなあ 

Trên đường trở về sau giờ làm thêm. Lê đôi chân trên con đường lớn ban đêm hướng về kí túc xá. Xe máy cứ hết chiếc này đến chiếc khác lướt ngang qua tôi. Ôi... mệt quá. Đường vẫn còn xa...

 

オレンジ色の街路灯に照らされた大通り。店も大半は閉じて、人影はない。午前と午後の授業の後、夕方から日本レストランでバイト。疲れた体にやかましいクラクションや排気ガス。心まで疲れさせる。

Phố lớn được chiếu ánh sáng màu vàng cam của đèn đường. Phần lớn các cửa hàng đã đóng cửa, không một bóng người. Sau cả học sáng và chiều, tôi làm thêm tại nhà hàng Nhật Bản từ chiều tối. Cơ thể rã rời, tiếng còi xe ầm ĩ, khói bụi. Mệt thấu xương.

 

 

140

Vài cây bút chì màu

Cả thiên hạ và cả vũ trụ

Hiện ra trước mắt em

   色鉛筆世界も宇宙も目の前に

       いろえんぴつ/せかいもうちゅうも/めのまえに

             Nguyễn Hương Anh

 

趣味は絵。まあまあ、描けるほう。大学受験の時、この大学にしようか、美大にしようか迷ったぐらい。小説家や詩人は鉛筆一本で世界も宇宙も書けるけ ど、私はちょっと無理。でも、色鉛筆が何本かあれば、何でも描いてみせる。 

Sở thích là vẽ tranh. Vẽ tương đối khá. Tới mức hồi thi đại học băn khoăn không biết nên thi đại học này hay thi trường mỹ thuật. Tiểu thuyết gia hay thi nhân có thể dùng một cây bút chì màu vẽ cả thế giới và cả vũ trụ nhưng tôi thì e là không thể. Thế nhưng nếu có vài cây bút chì màu thì tôi sẽ vẽ bất cứ cái gì cho mà xem.

 

「世界も宇宙も」ですから、自信たっぷりの俳句ですね。

"Cả thiên hạ và cả vũ trụ", quả là một bài Haiku đầy tự tin nhỉ.

 

 

141

Đôi bạn trẻ cười đùa

Dưới hàng cây đang mùa thay lá

Mong ta không thay lòng

   紅葉じゃない二人の心は変わらない

       もみじじゃない/ふたりのこころは/かわらない

              Đỗ Thùy Dung

 

緑の並木の下で若い二人が笑い転げています。季節は変わり、木々も色を変えます。しかし、これまでも、そしてこれからも二人の友情は変わりません。

Hai bạn trẻ đang cười nghiêng ngả dưới hàng cây xanh. Thời tiết giao mùa, cây thay lá. Nhưng, tới lúc này và từ nay về sau nữa, tình cảm của hai người vẫn không hề đổi thay.

 

いなかから来たばかりの私に親切にしてくれた友達。あれからもう3年。いつもありがとう!

Người bạn đã đối xử tốt với một đứa vừa từ quê lên thành phố như tôi. Đã 3 năm kể từ ngày đó. Tớ luôn luôn biết ơn cậu.

 

 

142

Mồng một trời se lạnh

Phố thênh thang vắng người qua lại

Hà Nội xưa về rồi

   肌寒い元日の朝閑散と昔のハノイ街に戻り来

       はだざむい/がんじつのあさ/かんさんと

        むかしのはのい/まちにもどりき

             Trần Minh Ngọc

 

新春とは言え、肌寒いです。元日は家族、親戚そろって家の中で過ごしますから、街は人も車もほとんど見えません。連日の喧騒(けんそう)から解放され、閑散そのもの。昔のハノイはこんなに静かで清潔だったんだろうなあ。

Mặc dù xuân mới đã sang rồi nhưng vẫn cảm thấy lạnh. Vì các gia đình, họ hàng tụ họp lại, cùng nhau trải qua ngày mồng một Tết ở trong nhà nên thành phố hầu như không nhìn thấy người và xe cộ. Thoát khỏi sự ồn ã của mọi ngày, trở về sự yên ả vốn có. Hà Nội của ngày xưa phải chăng đã yên tĩnh và thanh khiết đến nhường này.

 

街はひっそり静まり返っていると言っても言い過ぎではありません。商店やスーパーはもちろん、レストランも閉まっています。バスさえ本数を減らしますから、T先生のような外国人は外出が難しくなります。ベトナムの皆さんと同じように家から出ません。

Dù có nói thành phố trở lại vẻ yên tĩnh không một tiếng động thì cũng không phải nói quá chút nào. Các cửa hàng và siêu thị thì đương nhiên rồi, nhưng đến các nhà hàng cũng đóng cửa. Vì ngay cả xe buýt số tuyến cũng giảm xuống nên một người nước ngoài như thầy T ra ngoài cũng trở nên khó khăn. Thầy cũng giống như mọi người Việt Nam, không bước chân ra khỏi nhà.

 

 

143

Em ơi đừng buồn nữa

Anh biết rằng mai sẽ khác mà

Nắng vàng tỏa khắp nhà

   君悲しむな家中が光り輝く明日が来る

      きみかなしむな/いえじゅうが/

      ひかりががやく/あすがくる

           Lê Hà Minh Châu

 

もうこれ以上悲しまないで!暗い今日は忘れて!明日は今日とは違う。きっと光り輝く明日が来るよ!

Đừng buồn nữa! Hãy quên đi ngày hôm nay đen tối! Ngày mai sẽ khác hôm nay mà. Nhất định ngày mai tươi sáng sẽ đến thôi!

 

私は私、人は人。私の苦しみはだれも分からない。そう思って絶望します。でも、私を心配して、なぐさめてくれる友がいる。それだけでまた元気が出ます。

Tôi là tôi, họ là họ. Không ai hiểu nỗi đau khổ của tôi. Nghĩ vậy nên tôi tuyệt vọng. Tuy nhiên, có những người bạn lo lắng cho tôi, an ủi tôi. Chỉ cần như vậy, tôi lại cảm thấy khỏe lại.

 

 

144

Bụng đói đầu thì đau

Bài tập vẫn còn chưa học thuộc

Bạn đến tôi hết đau

   宿題はまだ終わらない空腹も頭痛も飛ばす友達の顔

       しゅくだいは/まだおわらない/くうふくも/

        ずつうもとばす/ともだちのかお

             Trần Thị Trang

  

宿題はまだ終わっていない。ちょっとおなかは減ったが、頭が痛くてあまり食欲がない。そんな時「いっしょに宿題しよう!」と訪ねてきた友達。わーっ!ひさしぶり!ぺちゃくちゃぺちゃくちゃおしゃべりしている間に空腹も頭痛もすっ飛んでいってしまった。 

Bài tập về nhà chưa làm xong. Hơi đói bụng... nhưng đau đầu nên chẳng muốn ăn gì cả. Những lúc như thế, có một người bạn đến chơi và nói “Mình cũng làm bài tập đi!” Oa! Lâu lắm không gặp! Lúc tám chuyện liến thoắng như thế thì cả cơn đói bụng lẫn cơn đau đầu bỗng bay đi đâu mất tiêu. 

 

頭痛には友達の笑顔がどんな薬よりもよく効くようです。ご飯を食べるのを忘れてしまうかもしれません。でも、話が一段落したら、急におなかが空いたと感じるでしょうね。

Khuôn mặt tươi cười của người bạn dường như hữu hiệu hơn bất cứ liều thuốc đau đầu nào. Có lẽ quên béng cả việc ăn cơm. Nhưng, khi nói chuyện một hồi là chắc lại cảm thấy đột nhiên bụng đói nhỉ?

 

 

145

Em bé nhỏ xinh xinh

Miệng cười chúm chím như chim nhỏ

Cầm bao lì xì đỏ

    幼子がお年玉手に笑い顔

       おさなごが/おとしだまてに/わらいがお

             Nguyễn Thị Nhật Linh

 

めいは3歳。おばあちゃんからお年玉をもらってにっこり。「いくらは入っていたの?」「う~ん?」あっ!そうか!お金は分からないけど、赤いポチ袋がうれしいんだ。

Cháu gái 3 tuổi. Mỉm cười khi nhận bao lì xì từ bà. “Có bao nhiêu tiền bên trong vậy?” "Dạ?" A! ra là vậy! Mặc dù không biết là bao nhiêu tiền nhưng bé vui vì bao lì xì đỏ. 

 

日本のポチ袋にはたいてい「お年玉」としか書いてありませんが、ベトナムのは様々です。「お正月」に加えて「福」「禄」「賀」などの文字とか桃の花や干支(えと)の動物が描かれています。ズバリ、金貨の絵もあります。お金の意味は分からなくても、賑やかな袋を見ればうれしくなるでしょう。

Trên bao lì xì của Nhật Bản chỉ viết chữ “Tiền mừng tuổi”, nhưng của Việt Nam thì rất đa dạng. Ngoài từ “Tết” còn có thêm những chữ như “Phúc” “Lộc” “Hạ” v.v. hay vẽ hoa đào hoặc các con vật trong 12 con giáp. Cũng có bao vẽ tranh đồng tiền vàng. Dù không hiểu ý nghĩa của tiền nhưng nếu nhìn thấy bao lì xì sặc sỡ chắc cũng cảm thấy vui mừng.

 

 

146

Bên bếp lửa bập bùng

Mọi người tâm sự chuyện đã qua

Một năm mới lại đến

   新年のろばたを囲む家族の輪

      しんねんの/ろばたをかこむ/かぞくのわ

            Hoàng Thị Thanh Mai

 

ろばたの火が燃えています。火は大きくなったり、小さくなったり。家族みんながろばたを囲み、お正月料理をいただきます。去年はこんなことがあったね、あんなことがあったね。今年はいい年になるね! 

Bếp đang đỏ lửa. Lửa lúc to lúc nhỏ. Cả nhà đang quây quần quanh bếp và thưởng thức những món ăn ngày Tết. Năm ngoái đã xảy ra những việc như thế này, như thế kia nhỉ. Mong năm nay sẽ là một năm tốt đẹp nhỉ.

 

お正月は家族全員がそろう機会です。ハノイに行っていたお姉さんと私も、ホーチミン市へ行っていたお兄さんも故郷に帰りました。ろばたの火に温かい家族の愛情が重なります。

 

Tết là dịp để cả gia đình đoàn tụ. Tôi và chị gái ở Hà Nội, anh trai ở Thành phố Hồ Chí Minh đều đã về quê. Tình cảm gia đình ấm áp nồng đượm cùng bếp lửa.

 

 

147

Quây quần đêm giao thừa

Gia đình chúc những lời tốt đẹp

Bên ngoài trời vẫn lạnh

   年越しの家族で交わすおめでとう!

   窓の外には冬が残るも

       としこしの/かぞくでかわす/おめでとう

        まどのそとには/ふゆがのこるも

              Hoàng Thanh Huyền

 

いよいよ年越し。「新年おめでとう!」「今年も元気で!」「みんな幸せ!」家族全員で新年のあいさつを交(か)わします。窓の外には冬の寒さが残りますが、家の中は幸せいっぱい。

Thời điểm năm cũ qua đi càng lúc càng đến gần. Tất cả mọi người trong gia đình trao nhau những lời chào năm mới “Chúc mừng năm mới!” “Năm nay chúc mọi người mạnh khỏe nhé!” “Chúc mọi người hạnh phúc!” Bên ngoài cửa sổ, cái lạnh giá của mùa đông vẫn còn sót lại nhưng trong nhà thì ngập tràn hạnh phúc.

 

伝統的にはこの句のように家族そろって先祖を礼拝し、年賀の挨拶をかわします。しかし、最近では、特に若者たちは、バイクに乗ってハノイ市内の何か所かで打ち上げられる花火を見に行く人も多いようです。

Theo truyền thống, giống như trong câu trên, cả gia đình lễ tổ tiên, trao nhau những lời chúc mừng năm mới. Nhưng gần đây, hình như có nhiều bạn trẻ cưỡi xe máy đi xem bắn pháo hoa ở nhiều địa điểm trong nội thành Hà Nội.

 

 

148

Trên con đường đầy hoa

Tà áo dài tung bay phấp phói

Mùa xuân về thủ đô

   花に満ちアオザイひらめく春の街

       はなにみち/あおざいひらめく/はるのまち

              Lê Hồng Phương

 

朝晩は寒いものの、テトが近づくころ、ようやく暖かくなり始めた。灰色だった街にも少しずつ緑が戻ってきた。女性たちは色とりどりの花束を抱え、アオザイのすそを春の風にひらめかせながら年始回り。

Sớm tối trời lạnh nhưng lúc tết gần kề, thời tiết đã bắt đầu dần ấm lên. Ngay cả ở những con phố vốn u ám thì màu xanh tươi cũng đã dần quay lại. Chị em phụ nữ ôm những bó hoa rực rỡ sắc màu, tà áo dài tung bay trong gió xuân đi chúc Tết mọi người. 

 

ハノイの冬は結構寒いです。その上、曇りの日が続き、湿気が多く、気持ちも滅入(めい)ってしまいます。だからこそ、春の喜びは大きいです。日本では花をプレゼントするのはしゃれていますが、とても高級で特別な感じがします。しかし、ベトナムの皆さんは花をいつも身近に飾っています。

Mùa đông của Hà Nội thì khá lạnh. Hơn thế nữa, những ngày trời nhiều mây cứ kéo dài, độ ẩm thì cao, tâm trạng con người ủ dột. Cũng chính bởi vì điều này mà niềm vui sướng khi mùa xuân về rất lớn. Ở Nhật Bản thì việc tặng hoa rất lãng mạn gây cảm giác đặc biệt sang chảnh. Tuy nhiên, người Việt Nam các bạn thì lúc nào cũng trang trí hoa cạnh mình. 

 

 

149

Nắng sớm làm tỉnh giấc

Nhận ra bầu tròi ngoài khung cửa

Giống như tuổi hai mươi

   早朝の明るい光に目は覚めて二十歳の空が窓の外

       そうちょうの/あかるいひかりに/めはさめて/

        はたちのそらが/まどのそと

             Vương Vũ Minh Anh

 

夏の早朝、明るい光が瞼(まぶた)に当たって、私は気持ちよく目が覚めた。窓から見上げると金色の光と澄みきった青い空。二十歳の私の心と同じ。元気がわいて、希望が広がる。新しい一日、がんばるぞ!

Vào những ngày hè, nắng thường lên rất sớm chiếu qua khung cửa sổ và chạm vào mí mắt, đánh thức tôi dậy. Khi mở mắt ra, điều đầu tiên tôi được nhìn thấy là ánh nắng vàng và bầu trời trong xanh ngoài cửa sổ. Sắc vàng rực và sắc xanh trong trẻo ấy tràn đầy sức sống, năng lượng cũng giống như tuổi trẻ ngập tràn những hy vọng và hoài bão. Tôi cảm thấy như được tiếp thêm sức mạnh và tự nhủ: "Hôm nay là một ngày mới, hãy cố gắng hết mình nào!"

  

気持ちよく目覚めるのは健康の印。健康でなければ勉強も仕事もできません。「二十歳の空」から作者Minh Anhさんの溌剌(はつらつ)とした心と体が感じられます。

Tỉnh giấc một cách thoải mái chính là dấu hiệu của sự khỏe mạnh. Chúng ta không thể làm việc hoặc học tập được nếu như không khỏe. Từ câu thơ “Bầu trời giống như tuổi 20”, có thể cảm nhận được sự sôi nổi, đầy sức sống của trái tim và sự mạnh mẽ của tác giả Minh Anh.

 

 

150

Ai cũng có tuổi trẻ

Hồi ức đẹp kèm sự nuối tiếc

Mãi in dấu trong tim

   青春の優美な思いも後悔も刻み込まれて心に残る

      せいしゅんの/ゆうびなおもいも/こうかいも/

      きざみこまれて/こころにのこる

            Trần Thị Vân Anh 

 

青春は夢ばかりじゃない。美しい思い出ばかりじゃない。右へ行こうか、左へ行こうか、迷いもある。ああすればよかった、こうすればよかった、後悔もある。大きな失敗こそ心に深く刻み込まれて、忘れることはできない。

Tuổi trẻ không chỉ có những ước mơ. Tuổi trẻ cũng không có toàn những hồi ức đẹp. Dù đi hướng này hay hướng khác thì đều có sự lạc lối. Mình đã nên làm thế này, mình đã nên làm thế kia, tuổi trẻ có cả sự nuối tiếc. Những thất bại to lớn khắc sâu trong tim và chúng ta không thể nào quên được.

 

青春は夢だ、希望だなんて、そんなことはずっと後になって、昔を思い返した時に思うこと。青春時代の真ん中にいる私たちは、迷ったり傷ついたり

Mãi sau này khi nghĩ về ngày xưa, chúng ta mới thấy tuổi trẻ là những ước mơ, là những khát vọng. Trong suốt thời thanh xuân chúng ta đã lạc lối, đã bị tổn thương...

 

 

151

Tiếng chim én lanh lảnh

Gió thổi cánh đào bay thật xa

Mùa xuân đã hết rồi

   強風が桃の小枝を吹き飛ばし

   ツバメさえずり春は終われり

      きょうふうが/もものこえだを/ふきとばし/

       つばめさえずり/はるはおわれり

             Hà Thế Trung

 

強い風が吹く季節になった。桃の小枝をポキッと折って、遠くまで吹き飛ばす。ツバメは北の国へ渡る準備をしてるようだ。空高くさえずりながら群れている。短い春が終わっていよいよ夏の到来か。

Đã sang mùa gió thổi mạnh. Gió bẻ gãy cành đào, thổi bay đi xa. Chim én hình như chuẩn bị bay về phương Bắc. Tiếng bầy chim lanh lảnh trên trời cao. Mùa xuân ngắn ngủi sắp kết thúc nhường chỗ cho mùa hè sắp đến rồi sao?

ベトナムではツバメの巣(す)が高級食材として珍重(ちんちょう)されています。しかし、日本の農村では米や麦などを荒らす害虫を食べてくれる鳥として大切にされてきました。また、人の家の近くに巣を作り、子育てをします。その家が安全でなければ、ツバメは近寄りません。ですからツバメの巣のある家は安全だという言い伝えもあります。

Ở Việt Nam, tổ yến là loại thực phẩm cao cấp rất được trân quý. Thế nhưng ở nông thôn Nhật Bản, người ta rất coi trọng loài chim này vì nó ăn côn trùng phá hoại lúa màu. Nó còn làm tổ và nuôi con ở gần nhà của con người. Nếu nhà đó không an toàn thì én không lại gần. Vì thế tương truyền những nhà có tổ én rất an toàn. 

 

「ツバメが低く飛ぶと雨が降る」ということわざがありますが、それはツバメのえさになる昆虫の羽が水分で重くなって低く飛ぶようになるから、それを追うツバメも低く飛ぶそうです。ベトナムのことわざに「Én bay thấp mưa ngập bờ ao. ツバメが低く飛ぶと池の水があふれる」がありますが、同じことですね。

Có câu tục ngữ “Én bay thấp trời mưa” mang ý nghĩa: những loài côn trùng là thức ăn của chim én vì cánh dính mưa ướt nặng nên chúng bay thấp khiến cho chim én cũng bay thấp để bắt mồi. Trong tục ngữ Việt Nam cũng có câu “Én bay thấp mưa ngập bờ ao” chắc cũng mang ý nghĩa ấy.

 

 

152

Đồng lúa xanh trải dài

Cò bay thẳng cánh về chân trời

Em bé quê thổi sáo

   緑に伸びる水田の

   白さぎ高く空に舞い

   田舎の子らは笛を吹く

      みどりにのびる/すいでんの/

      しらさぎたかく/そらにまい/

      いなかのこらは/ふえをふく

             Nguyễn Thị Trà

 

青々と育った稲田(いなだ)が山のふもとまで伸びています。空には白さぎが舞っています。黒い林の間に農家が点在しています。いなかの子供たちは笛を吹いています。 

Đồng lúa xanh mướt trải dài đến tận chân núi. Cò trắng bay trên trời. Thấp thoáng những ngôi nhà của người nông dân giữa những cánh rừng đen. Các em bé quê đang thổi sáo.

緑と白が鮮やかな色の対比を見せます。絵があります。子供が吹く笛は竹で作ったほんとうの笛でしょうか、あるいは草笛でしょうか。音があります。ベトナムの各地方それぞれの美しい農村風景を見ることができます。日本でもかつてはこのような風景が見られましたが、工業化と共に農業においてさえ、大型機械が導入され、どこへ行っても同じ景色になってしまいました。

Bài thơ cho ta thấy sự tương phản rực rỡ giữa màu xanh lá và màu trắng. Có một bức tranh. Trẻ em thổi sáo thật làm bằng tre phải không nhỉ? Hay là sáo lá? Nghe có âm thanh. Ta như thấy phong cảnh đồng quê tuyệt đẹp của từng địa phương ở Việt Nam. Trước đây ở Nhật cũng có thể thấy những phong cảnh như thế nhưng cùng với công nghiệp hóa, máy móc cỡ lớn được đưa vào sử dụng trong nông nghiệp nên dù đi đâu cũng chỉ bắt gặp những khung cảnh giống nhau mà thôi.

 

 

153

Trời nắng chang chang kìa

Đi ngoài đường như muốn bốc cháy

Mẹ vẫn phải làm việc

   路を焼き肌差す日なたを母は行く

       みちをやき/はださすひなたを/はははゆく

               Nguyễn Thị Phương Thảo

 

夏の厳しい日差し。コンクリートの道路さえ焼いてしまうほどです。肌に当たってじりじり痛いです。お母さんはそれでもその日差しの中で働かなければなりません。

Ánh nắng gay gắt của mùa hè. Đến mức đường bê tông cũng chảy nhựa. Nắng chiếu vào da, ta cảm thấy đau rát. Ấy vậy mà, trong cái nắng đó, mẹ vẫn phải làm việc.

 

お母さんの仕事は何でしょうか。商品をかついで街から街へ行商しているのしょうか、あるいは道端に並べて売っているのでしょうか。作者Thảoさんはハノイの大学で勉強していますが、苦労しながら仕送りを続けてくれるお母さんへの感謝と心配を読むことができます。 

Công việc của mẹ là gì vậy? Có phải mẹ đang gánh hàng bán rong đi từ con phố này sang phố khác không? Hay là đang bày hàng ra bán ở ven đường chăng? Tác giả Phương Thảo đang học đại học ở Hà Nội. Nhưng ta có thể đọc được sự lo lắng và biết ơn đến người mẹ đang vất vả nuôi mình ăn học.

 

 

154

Cánh phượng tuổi học trò

Gìn giữ ướp nơi trang nhật ký

Năm tháng đầy mộng mơ

   押し葉こそ小学生の夢残す日記に挟んだ火炎樹の花

       おしばこそ/しょうがくせいの/ゆめのこす/

        にっきにはさんだ/かえんじゅのはな

              Đào Thị Loan

 

小学生の時の日記を開いてみた。ページの間から火炎樹の押し葉がこぼれた。なつかしいあのころ。夢がいっぱい。そして確かに、今の私につながる夢が書いてある。

Tôi đã mở thử nhật ký của thời tiểu học. Từ giữa trang giấy tràn ra những cánh phượng ép khô. Ngày xưa ấy thật đáng nhớ. Đầy mơ ước. Và chắc hẳn rằng trong có viết về giấc mơ dẫn đến tôi của ngày hôm nay.

私たちは何のために日記を書くのでしょう。毎日の小さな記録? 忘れちゃいけない用事を書いておく? 考えを整理するため? そのどれにしても、久しぶりに日記を読み返した時にはなつかしさでいっぱいになるでしょう。

Chúng ta viết nhật ký để làm gì? Ghi chép lại điều nhỏ nhặt hàng ngày? Viết lại những việc không được quên? Để điều chỉnh suy nghĩ? Cho dù là với mục đích gì thì trong khoảnh khắc đọc lại cuốn nhật ký đã viết từ ngày xưa thì chắc rằng những cảm xúc bồi hồi sẽ ngập tràn trong tâm trí bạn. 

 

 

155

Sáng cuối thu trong xanh

Đám trẻ con ríu rít trên đường

Nhớ ngày đầu đến trường

   学童がさえずり歩む通学路子供の私がそこにいる

      がくどうが/さえずりあゆむ/つうがくろ/

      こどものわたしが/そこにいる

             Phạm Nhật Linh

  

秋も終わり。朝の澄んだ空気の中を子供たちが学校へ行く。ピーピーきゃあきゃあ、ふざけ合いながら。私が最初に学校へ行ったのもこんな朝だった。

Mùa thu cũng kết thúc. Đám trẻ đến trường trong bầu không khí trong lành của buổi sáng. Vừa trêu nhau chí chóe. Ngày đầu tôi đến trường cũng là một buổi sáng như thế này đây.

T先生は不思議な感覚にとらわれたことがあります。久しぶりに故郷へ帰り、そこの駅でのこと。大勢の人が改札口から出てきます。少年も、学生も、若い人も中年の人も。次々と現れては目の前を通り過ぎるその人たちを見て、その中にかつての自分がいるのです。ああ、あの少年は少年時代の私だ。あの高校生は高校時代の私だ。あの人は30代の私だ、あの人は40代の私だ。小鳥のようにさえずりながら通学路を行く子供たちを見て、作者Linhさんはその中に自分の姿を発見したのではないでしょうか。 

Thầy T từng bị một cảm giác kỳ lạ xâm chiếm. Đó là chuyện xảy ra tại nhà ga ấy khi lâu rồi mới về quê. Nhiều người đang ra khỏi cửa soát vé. Cả thiếu niên, sinh viên, người trẻ, người già nữa. Nhìn những người đó lần lượt hiện ra và đi qua trước mắt mình, trong số đó có cả mình của trước đây. Aa, thiếu niên kia chính là tôi thời trẻ. Cậu học sinh cấp 3 kia là tôi thời cấp 3. Người kia là tôi những năm 30 tuổi. Người kia là tôi của tuổi 40. Nhìn bọn trẻ ríu rít như chim non trên đường đi học, tác giả Linh chắc đã phát hiện thấy bóng dáng của chính mình trong ấy chăng?

 

 

156

Trong màn đêm tĩnh lạng

Tiếng rao đêm nghe còn vang vong

Xôi không? Bánh mì không?

   静か夜に行商の声朗々と

   おこわ買わんか?パンはいかがか?

      しずかよに/ぎょうしょうのこえ/ろうろうと/

       おこわかわんか/ぱんはいかがか

            Lê Trà My

 

  多くの人が寝静まった夜遅くでも仕事や勉強で起きている人がいます。7時ごろ晩ご飯を食べたから12時を過ぎればまたおなかが空いてきます。「おこわだよ~!うまいよ~!」「蒸しパンはいらんかね~!」などと行商の声が響きます。

Mặc dù trời đã khuya, mọi người đã ngủ say và xung quanh trở nên vắng lặng, có những người vẫn đang thức để làm việc hay học bài. Ăn tối lúc 7 giờ nên nếu quá 12 giờ đêm thì sẽ lại thấy đói. Khi ấy, tiếng của những hàng bán rong vang lên: “Xôi đây! Xôi ngon đây!”, “Bánh mì vừa nướng đây!”

行商人は都会の至るところで活躍しています。おこわ、パン、生めん、おしるこ、果物、野菜などの食べ物を初め、ガムやあめなどのお菓子、色とりどりの花、CD、本、靴、おもちゃ、風船、財布やライターなどの小物。そして、大事なのが古紙、びん、缶、金物などのリサイクル。それぞれが独特の節回しで肉声を張り上げるので、T先生にはまるで音楽のように聞こえます。 

Người bán hàng rong bán hàng ở khắp mọi nơi của thành phố. Ban đầu là những đồ ăn như xôi, bánh mì, bún, mì, chè, hoa quả, rau… bánh kẹo như kẹo cao su hay kẹo ngậm, rất nhiều loại hoa sặc sỡ, những đồ dùng nhỏ như CD, sách, giầy dép, đồ chơi, bóng bay, ví tiền hay bật lửa… Và quan trọng là những đồ tái chế như giấy cũ, bình, chai, lọ, sắt vụn. Vì mỗi người đều cất cao tiếng nói của mình bằng âm điệu độc đáo nên với thầy T, nó nghe như thể là âm nhạc vậy.

行商にはどこか短調(たんちょう)の響きがあります。ドミソ以外の中途半端(ちゅうとはんぱ)な調子で終るのはそれがかえって聞く人の気持を引くからでしょう。

Tiếng rao hàng rong vang vọng âm hưởng ngắn ở đâu đó. Việc kết thúc ở thanh âm nửa chừng ngoài Đô Mi Sol phải chăng dội lại và đánh vào lòng người nghe.

 

行商というのは商品をかつぎ、肉声で呼びかけるものですから、その声が届かなくなってしまえば商売はできません。ハノイでもその危機が差し迫っています。今や街はバイクが我が物顔(わがものがお)に走り回っています。T先生はそのバタバタ音やベーベー音が早晩(そうばん)に行商を押しつぶすのは必至(ひっし)と見ています。同様に問題なのが林立する高層マンション。10階、20階へ呼びかけることはできません。録音の機材と技術があれば何とか行商の声を保存しておきたいとT先生は思っていますが、残念です。せめて、こちらの大学か博物館に保存を提案したいです。 

Vì bán hàng rong là việc gánh hàng và gọi mời hàng bằng giọng trần nên tiếng nói ấy nếu không tới được thì họ sẽ không bán được hàng. Ngay cả ở Hà Nội những nguy cơ như vậy đang rất cấp thiết. Thành phố bây giờ xe máy chạy quanh như thể đường phố là của mình. Thầy T thấy rằng việc những âm thanh ầm ầm hay những tiếng bíp đó cuối cùng sẽ bóp bẹp những gánh hàng rong là điều tất yếu. Vấn đề tương tự là những tòa nhà cao tầng đứng san sát nhau. Những tòa nhà cao 10 tầng, 20 tầng nên người bán hàng không thể gọi mời hàng. Thầy T nghĩ rằng nếu có thiết bị hay kĩ thuật ghi âm thì dù thế nào cũng muốn giữ gìn tiếng rao hàng rong nhưng thật đáng tiếc. Ít nhất thì thầy cũng muốn đề xuất việc giữ gìn tới trường đại học hoặc viện bảo tàng.

 

 

157

Ngồi đọc bài tiếng Nhật

Nhớ nhớ rồi quên quên bài cũ

Mùa đông mắt muốn ngủ

   日本語を読んでは忘れ冬の夜忘れては読みついうとうとと

       にほんごを/よんではわすれ/ふゆのよる

       わすれてはよみ/ついうとうとと

             Bùi Diệu Linh

 

何回読んでもすぐ忘れてしまう。昨日勉強したところを今日は覚えていない。寒い冬の夜だけど、試験が近い。がんばらなくちゃと思っても、つい上のまぶたと下のまぶたが仲良くなって

Dù có đọc bao nhiêu lần đi chăng nữa thì lại quên ngay. Bài học hôm qua thì hôm nay chẳng còn nhớ nữa. Đêm đông lạnh nhưng kỳ thi thì đang đến gần. Cho dù nhủ lòng phải cố gắng nhưng mí mắt trên và mí mắt dưới lỡ kết bạn với nhau rồi...

 

T先生は言います。いや、だいじょうぶ!何回も読んでください!3回じゃない。30回読んでください!

Thầy T nói. Không sao đâu! Hãy đọc nhiều lần vào! Không phải là 3 lần mà hãy đọc 30 lần!

 

 

 158

Trăng ơi... từ đâu đến

Từ biển rộng, từ cánh rừng xa

Hay từ lời mẹ ru

銀のお盆のお月さま、あなたはどこから来るかしら

ひろ~い海の波の上、はるかな森のこずえから

あるいはやさしい母さまの、子守歌から来るかしら

ぎんのおぼんの/おつきさま/あなたはどこから/くるかしら

ひろ~いうみの/なみのうえ/はるかなもりの/こずえから/

あるいはやさしい/かあさまの/こもりうたから/くるかしら

Hoàng Minh Thu

 

遊び疲れた子供たち。たくさんお話しした。ご飯もいっぱい食べた。その子たちがそろそろ眠くなりました。銀色のまあるいお月さまが窓の外から見守っています。ねえねえ、お母さま、あのお月さまはどこから来るの? 

Bọn trẻ con chơi mệt. Nói chuyện nhiều. Đã ăn no cơm. Những đứa trẻ ấy sắp sửa buồn ngủ. Ông trăng tròn xoe màu bạc từ ngoài của sổ đang dõi theo. Này này, mẹ ơi, ông trăng kia từ đâu đến?

  

そうねえ、どこから来るのかしらねえ。お魚さんやカニさんがすんでる海かしら。その波の上を渡って来るのかしら。それともかわいい小鳥さんやちょうちょうさんのすんでる森かしら。高いこずえを越えて来るのかしら。お母さんが歌うように話していると、いつの間にか子供たちはむにゃむにゃすやすや。金子みすゞを思い出す心の優しい俳句です。

Đúng rồi, trăng từ đâu đến nhỉ? Từ biển khơi nơi lũ cua cá sống ư? Ông trăng vượt qua đầu những ngọn sóng kia đến đây phải không nhỉ? Hay là từ khu rừng nơi lũ chim lũ bướm đáng yêu đang sống? Vượt qua đầu ngọn cây cao đến đây chăng? Nói chuyện như mẹ hát thì chẳng mấy chốc lũ trẻ thiu thiu say sưa ngủ. Một bài Haiku dịu dàng gợi nhớ đến Kaneko Misuzu.